Nội dung văn tế thập loại chúng sinh của đại thi hào Nguyễn Du 

van-te-thap-loai-chung-sinh-7

Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du là tác phẩm văn tế rất xuất sắc và nổi tiếng, mô tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ người giàu đến kẻ nghèo, không ai có thể khước từ cái chết. Để hiểu rõ hơn về nội dung của bài văn tế này, cùng Vật Phẩm Phật Giáo tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây. 

I. Đôi nét về tác phẩm văn tế thập loại chúng sinh

Văn tế thập loại chúng sinh là một tác phẩm xuất sắc và nổi tiếng đại thi hào Nguyễn Du. Văn tế được viết bằng tiếng Nôm và hiện chưa rõ thời điểm sáng tác cụ thể. Theo như văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú lại thì Nguyễn đã viết bài văn tế này sau khi chứng kiến một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp nơi âm khí nặng nề và ở các chùa người ta đều lập đàn cầu siêu giải thoát cho hàng triệu linh hồn. Tuy nhiên, theo Giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì lại cho rằng có lẽ đại thi hào đã viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức là lúc Nguyễn Du còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812).

van-te-thap-loai-chung-sinh-4

Bài văn tế ra đời khi tác giả chứng kiến hậu quả kinh khủng của mùa dịch 

Cuộc đời của Nguyễn Du phản ánh khá rõ trong Thanh Hiên Thi Tập. Từ năm 1786 đến 1795, ông sống lang thang, ăn nhờ ở đậu, túi rỗng không, bệnh tật triền miên, nghèo không có tiền mua thuốc, người thân mỗi người một ngả, có lúc bệnh mấy tháng liền mà chỉ còn chờ chết. Cho đến khi sau này ông ra triều Nguyễn làm quan thì cuộc sống mới khá lên nhưng ông vẫn giữ vẻ thanh nhã đơn giản như một học trò nghèo. 

Trong Nam Trung Tạp Ngâm cũng có ít nhất hai bài thơ nói đến vợ con nghèo đói. Vì vậy điều đó giải thích vì sao Nguyễn Du thuộc tầng lớp trên mà trong thơ ca của ông lại có một mối đồng tình liên kết thắm thiết với những người thuộc tầng lớp nghèo khổ. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài Văn tế chiêu hồn. 

Xem thêm các bài viết liên quan đến kiến thức phật giáo khác:

van-te-thap-loai-chung-sinh-3

Tượng đại thi hào dân tộc Nguyễn Du 

Tác phẩm Văn chiêu hồn theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ viết bằng chữ Nôm. Bố cục của bài văn tế có thể được chia làm 4 phần, gồm: 

Phần 1: Gồm 20 câu thơ đầu tiên miêu tả khung cảnh một chiều thu tháng bảy mưa buồn, khiến cho nhà thơ phải cảm thấy chạnh lòng và thương cho những chúng sinh đang sống trong lạnh lẽo, bơ vơ nơi cõi âm mà lập đàn cầu siêu. 

Phần 2: 116 câu thơ tiếp theo dùng để nêu nguyên nhân khiến cho 10 loại cô hồn thiệt mạng. 

Phần 3: Gồm 20 câu thơ tiếp miêu tả cuộc sống đau buồn, thê lương của những cô hồn 

Phần 4: Gồm 28 câu thơ còn lại như là lời thỉnh cầu của nhà thơ xin Phật nhiệm màu có thể giúp cho những cô hồn tới nhận phần lễ cúng để được siêu thoát. 

II. Nội dung bài Văn tế thập loại chúng sinh

van te thap loai chung sinh 1

Tác phẩm “Văn tế thập loại chúng sinh” gồm 184 câu thơ và sáng tác bằng chữ Nôm 

Dưới đây là một vài trích đoạn trong tác phẩm “Văn tế thập loại chúng sinh” của Nguyễn Du: 

“Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô,

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuộm bạc, lá ngô rụng vàng.

  1. Đường bạch dương bóng chiều man mác,

Ngọn đường lê lác đác sương sa,

Lòng nào là chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,

  1. Có khôn thiêng phảng phất u minh

Thương thay thập loại chúng sinh,

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.

Hương khói đã không nơi nương tựa,

Hồn mồ côi lần lửa đêm đen,

  1. Còn chi ai quý ai hèn,

Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,

Nước tịnh bình rưới hạt dương chi,

Muôn nhờ đức Phật từ bi,

  1. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,

Chí những năm cướp gánh non sông,

Nói chi những buổi tranh hùng,

Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.

  1. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở,

Khôn đem mình làm đứa sất phu,

Lớn sang giàu nặng oán thù,

Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,

  1. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa

Cho hay thành bại là cơ

Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!

Cũng có kẻ màn lan chướng huệ,

Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

  1. Một phen thay đổi sơn hà,

Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Trên lầu cao dưới cầu nước chảy

Phận đã đành trâm gãy bình rơi,

Khi sao đông đúc vui cười,

  1. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói

Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.

Thương thay chân yếu tay mềm

Càng năm càng héo, một đêm một rầu.

  1. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngọn bút son thác sống ở tay,

Kinh luân găm một túi đầy,

Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.

Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,

  1. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,

Nghìn vàng khôn đổi được mình,

Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước,

Biết lấy ai bát nước nén nhang?

  1. Cô hồn thất thểu dọc ngang,

Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.

Kìa những kẻ bài binh bố trận

Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.

Gió mưa sấm sét đùng đùng,

  1. Dãi thây trăm họ nên công một người.

Khi thất thế tên rơi đạn lạc,

Bãi sa trường thịt nát máu rơi,

Bơ vơ góc bể chân trời,

Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?

  1. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,

Khí âm huyền mờ mịt trước sau,

Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,

Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú,

  1. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,

Ruột rà không kẻ chí thân,

Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,

Của phù du dẫu có như không,

  1. Sống thời tiền chảy bạc ròng,

Thác không đem được một đồng nào đi.

Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm,

Hòm gỗ đa bó đón đưa đêm,

Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm,

  1. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý

Dấn mình vào thành thị lân la,

Mấy thu lìa cửa lìa nhà,

Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?

  1. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,

Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,

Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,

Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.

Bóng phần tử xa chừng hương khúc,

  1. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,

Cô hồn nhờ gửi tha phương,

Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,

Cánh buồm mây chạy xé gió đông.

  1. Gặp cơn giông tố giữa dòng,

Đem thân vùi lấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán,

Đòn gánh tre chín dạn hai vai,

Gặp cơn mưa nắng giữa trời,

  1. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,

Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,

Nước khe cơm ống gian nan,

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.

  1. Buổi chiến trận mạng người như rác,

Phận đã đành đạn lạc tên rơi.

Lập lòe ngọn lửa ma trơi,

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.

Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,

  1. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,

Ngẩn ngơ khi trở về già,

Đâu chồng con tá biết là cậy ai?

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,

  1. Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,

Thương thay cũng một kiếp người,

  1. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

Gửi mình vào chiếu rách một manh.

Nắm xương chôn lấp góc thành,

Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?

  1. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,

Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.

Lấy ai bồng bế vào ra,

U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,

  1. Cũng có người sẩy cối sa cây,

Có người leo giếng đứt dây,

Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái

Người thì sa nanh sói ngà voi,

  1. Có người hay đẻ không nuôi,

Có người sa sẩy, có người khốn thương.

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước

Cầu Nại Hà kẻ trước người sau

Mỗi người một nghiệp khác nhau

  1. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,

Hoặc là nương ngọn suối chân mây,

Hoặc là bụi cỏ bóng cây,

Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.

  1. Hoặc là nương thần từ, Phật tự

Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông

Hoặc là trong quãng đồng không,

Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.

Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,

  1. Gan héo khô dạ rét căm căm,

Dãi dầu trong mấy mươi năm,

Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,

Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,

  1. Lôi thôi bồng trẻ dắt già,

Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,

Phóng hào quang cứu khổ độ u,

Rắp hoà tứ hải quần chu,

  1. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,

Chuyển pháp luân tam giới thập phương,

Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,

Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

  1. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,

Mười loài là những loài nào?

Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,

  1. Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,

Của có chi bát cháo nén nhang,

  1. Gọi là manh áo thoi vàng,

Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lại,

Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.

Phép thiêng biến ít thành nhiều,

  1. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh.

Phật hữu tình từ bi phổ độ

Chớ ngại rằng có có không không.

Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng

Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.”

Nguồn: Văn tế cổ và kim, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1960

Như vậy, trên đây là thông tin nội dung về Văn tế thập loại chúng sinh hay còn gọi là Văn chiêu hồn của tác giả Nguyễn Du mà Vật phẩm Phật giáo tổng hợp được. Tác phẩm đã tạo ra sức mạnh vô biên, làm thay đổi cả tư tưởng và lối sống con người. 

Nam Mô A Di Đà Phật.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

.
.
.