Tứ vô lượng tâm là gì? Từ bi hỷ xả có ý nghĩa như thế nào?

tu-bi-hy-xa-8777

Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Đức Phật đã khuyên dạy chúng sinh rằng hãy chăm tu tập “Tứ vô lượng tâm”, hay tức là “bốn món tâm rộng lớn không lường được”, đó là các tâm “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Phật dạy là hãy mở rộng bốn tâm này, không hạn chế và cho tất cả các loài hữu tình ở khắp bốn phương. Vậy Tứ vô lượng tâm ấy là gì? Từ bi hỷ xả có ý nghĩa ra sao? Hãy cùng Vật phẩm phật giáo tìm hiểu chi tiết về những đặc tính này trong bài viết dưới đây.

I. Tứ vô lượng tâm hay Từ, Bi, Hỷ, Xả có nghĩa là gì?

Tứ vô lượng tâm hay Từ, Bi, Hỷ, Xả là bốn đức tính tiềm tàng bên trong lòng của mỗi người chúng ta. Dù cho giàu có sang cả hay nghèo khổ cơ hàn, dù thông minh trí tuệ hay đần độn dốt nát, dù ốm gầy hay mập mạp, cao hay thấp, mạnh mẽ hay yếu đuối, xinh đẹp hay xấu xí thì Tứ vô lượng tâm đều có sẵn trong tâm, trong lòng chúng ta.

Chính nhờ Từ, Bi, Hỷ, Xả mà con người mới xứng đáng được là con người. Theo đó, Tứ vô lượng tâm này là phần tinh túy cao cả nhất trong tâm hồn và đồng thời là lý do, nền tảng cho mọi hành động của mỗi ta. Tâm hồn chúng ta có được sự tinh khiết, thanh tịnh thì cũng nhờ có Tứ vô lượng tâm

Đành rằng Tứ vô lượng tâm đã có sẵn trong lòng mỗi con người, tuy nhiên, chúng ta phải cố công tìm kiếm mới mong thấy được nó. Đồng thời, chúng ta cũng phải cố gắng thực hành và vun đắp những đức tính một cách liên tục, không ngừng thì mới hy vọng trở thành một con người tốt được.

Theo đó, chúng ta cần cố gắng: cố gắng không tham dục, không say mê; cố gắng diệt tận những tư tưởng oán hờn, ganh tị; cố gắng không lười biếng; cố gắng vượt khỏi mọi sự thắc mắc lo âu; cố gắng tạo một đức tin vững vàng, tin nơi Phật, tin nơi Pháp, tin nơi Tăng, tức là thắng được hoài nghi trong lòng; cố gắng diệt trừ cái “có ta” để đạt cho kỳ được cái “không ta”. 

tu-bi-hy-xa-81

Từ, Bi, Hỷ, Xả là những đức tính tiềm tàng bên trong lòng của mỗi người chúng ta, giúp con người trở nên tốt đẹp hơn

Dục tham (Kàmacchanda), sân hận (Vyàpàda), lười biếng (Thìna Middha) lo âu (Uddhacca Kukkucca) và hoài nghi (Vicikicchà) là năm động lực liên tục chi phối tâm của chúng ta và làm cho tâm luôn luôn dao động. Đây cũng là năm chướng ngại làm tâm ta không thể trở về thanh tịnh. 

Bên cạnh đó, vì không thể hiểu được chân lý của sự vật và vũ trụ là vô thường, vô ngã, khổ não nên con người mới đâm ra tham (lobha) và phàm đã tham tức có luyến ái, thọ hưởng, kèm theo đó là ghen ghét, lựa chọn, bám giữ cái đã có, ước mong cái sẽ có, tiếc hận cái đã mất. Chính vì tham, sân, si mà con người không thể tiến đến trạng thái trong sạch.

Tuy vậy, bây giờ, với Tứ vô lượng tâm, chúng ta sẽ thắng được năm trạng thái trên. Lúc này, lòng ta sẽ dần dần bình lại, lắng xuống và từ đó trở nên thanh tịnh, trong sạch. Chừng đó, chúng ta sẽ sống được một cuộc đời phong phú vô biên với Từ, Bi, Hỷ, Xả. 

Xem thêm các bài viết liên quan đến kiến thức Phật giáo liên quan khác: 

II. Từ, Bi, Hỷ, Xả là như thế nào?

1. TỪ (METTA)

Từ (Metta) được gọi là tình thương, là lòng từ ái. Tuy nhiên, tình thương cũng như lòng từ ái không đủ để diễn tả hết nghĩa của chữ Từ trong Tứ vô lượng tâm. Khi nói con người có tình thương đối với một người hay một vật thì tức là có sự luyến ái của ta trong đó. Nói ta có tình thương thì dĩ nhiên là trong đó sẽ có sự lựa chọn, so sánh và đánh giá. Nghĩa là khi thương, trong tiềm thức con người sẽ bao hàm cả sự không thương, không ưa cái gì trái nghịch. Hơn nữa, có những tình thương khiến con người muốn làm chủ, muốn sở hữu. 

Đồng thời, khi mất người hay vật mà ta thương, hoặc chỉ sứt mẻ một phần nào đó, ta sẽ đâm ra hối tiếc. Lại có thứ tình thương trong đó có ẩn ý hy vọng cái thương trở lại. 

Tóm lại, những tình thương nào mà không trong trẻo được thì dĩ nhiên không thể đồng nghĩa với tâm Từ trong Tứ vô lượng tâm. Bởi lẽ, những tình thương đó đều xây đắp cái điểm tựa của nó trên bản ngã của con người. Cái tôi vẫn tồn tại cùng với cái tâm còn bị đè nén dưới những lớp tham, sân, si thì không thể nào có được tâm Từ của Tứ vô lượng tâm theo nghĩa của Đức Phật.

tu-bi-hy-xa-82

Từ chính là lòng thương, lòng bác ái của con người

Ngoài ra, tâm Từ còn khiến cho chúng ta không những thương người thân, bạn bè, những người thân quen mà còn thương luôn đến cả những kẻ mình cho là thù địch, kẻ thù; thương người tốt cũng như thương người xấu, người thiện cũng như người ác, thương không chọn lựa mà chỉ nghĩ rằng người xấu và người ác chỉ toàn là những người chưa tốt và chưa thiện mà thôi.

Hơn thế nữa, tâm Từ lại là một tình thương không phải giới hạn trong một gia đình, một bộ lạc, một quốc gia, một tôn giáo… Tình thương này không những bao trùm lên toàn thể nhân loại mà còn lan tràn ra đến cả những sinh linh vạn vật, nơi nào có sự sống là có tình thương. Nó cũng bao trùm lên tất cả chúng sinh hữu hình, vô hình, đã, đang và sẽ có trong cõi Sa Bà.

Nhiều tôn giáo cũng chủ trương đề cao lòng từ ái và khuyên dạy con người phải yêu thương đồng loại, nghĩa là giữa người với người, không phân biệt màu da, giai cấp. Đó chính là tình thương cao đẹp, chắc chắn. Tuy nhiên, con người lại giết hại động vật để thỏa mãn cơn đói của mình, hoặc bắt con vật này cho con vật khác ăn tức là cướp sự sống để nuôi sự sống. Không những tâm từ không cho con người chúng ta giết hại sinh linh mà còn không cho ta làm những điều gián tiếp giết hại, chẳng hạn như chế tạo hoặc buôn bán khí giới, các thức ăn, đồ uống có chất độc, hoặc thốt ra những lời, ý mà có thể ám hại sinh linh.

tu-bi-hy-xa-83

Khi có được tâm Từ, chúng sanh nhờ đó mà sẽ có một cuộc sống yên vui, hạnh phúc, không còn đau khổ

Người Phật tử xứng đáng là người luôn luôn nuôi trong tâm đức của mình từ vô biên vô hạn, bởi căn bản của giáo lý nhà Phật chính là tâm Từ. Với hơn hai mươi lăm thế kỷ, Đức Phật đã rải cho nhân loại khắp mọi nơi lòng từ bi của Ngài. Theo đó, nhờ oai lực cao cả của tâm Từ mà vua A Dục đã trở thành một vị vua nhân từ đạo hạnh, cũng nhờ có được lòng tâm Từ mà biết bao nhiêu vĩ nhân đã đắc Tứ Thánh cùng hạnh Bồ Tát, vượt lên trên khỏi tham, sân, si và đứng ngoài vòng ngã chấp. Lòng Từ giúp tạo nên một thế giới mà ở đó con người biết thương yêu nhau, một thế giới không còn chiến tranh giết chóc, không còn hiềm thù ganh tị hay say mê lầm lạc.

Bất kỳ chúng sanh có được lòng Từ như vậy là đã đạt được một vị trí tinh thần cao cả, nhờ đó được yên vui trong kiếp này và sẽ mang theo trong những kiếp sau để tăng bội sự yên vui hạnh phúc.

2. BI (KARUNA)

Bi có nghĩa là buồn. Tuy nhiên, buồn ở đây không phải là vì tâm tư, phiền não riêng của mình, không phải là vì không được đắc nguyện trong vọng tưởng cũng như không phải buồn vì bản ngã của mình. Mà Bi ở đây là buồn vì cái buồn của người khác, khổ vì cái khổ của người khác. Tâm Bi cho chúng ta thấy được cái đau thương, phiền não của người khác cũng như chính của ta; làm cho chúng ta hòa mình với mọi người và cảm thấy đau khổ như họ, từ đó khiến chúng ta tận tâm giúp đỡ những người ấy ra khỏi cảnh khổ.

tu-bi-hy-xa-83

Bi là buồn, là sự thương xót, thấu hiểu, cảm thông

Các yếu tố trong Tứ vô lượng tâm đều có liên quan mật thiết với nhau. Trong Từ có Bi và Bi do lòng Từ mà ra. Theo đó, Tâm Bi luôn khiến ta hành động ngoài ý vụ lợi, có  nghĩa là hành động mà không mong cầu cái phần lợi nào trả lại cho mình, hoặc vật chất hoặc tinh thần, bởi vì lẽ dĩ nhiên là tâm Bi cũng giống như tâm Từ, hoàn toàn tác động ngoài cái tôi. Hơn thế nữa, chúng ta không vì lẽ muốn làm chấm dứt đi cái khổ cho người này mà lại phải gây cái khổ cho kẻ khác, làm như vậy chỉ là dời cái đau khổ từ chỗ này qua chỗ khác mà thôi. Chúng ta không có quyền lấy cái hạnh phúc, vui vẻ của người này và bắt họ phải đổi lấy cái đau khổ của kẻ khác. 

Cũng như đã đề cập, ta không có quyền cướp đoạt đi sự sống của loài vật này chỉ để nuôi sống cho loài vật khác. Tâm Bi giúp cho ta thông cảm được cái khổ của người khác, muốn giải khổ cho họ mà không oán ghét lên những người sung sướng, hạnh phúc. Đồng thời, tâm Bi chỉ cho phép ta hy sinh những gì của bản thân chúng ta. Tâm Bi không phải nhằm mục đích lập lại mọi thăng bằng mà mục đích của nó chính là giải khổ thực sự bằng cách đem người khổ ra khỏi cảnh khổ chứ không phải dời chỗ cái khổ nơi này qua nơi khác. 

Lòng Bi không cho phép con người chúng ta dùng các phương tiện vô đạo để đạt được mục tiêu mặc dù là hữu đạo. Đồng thời, lòng Bi luôn luôn khiến chúng ta tự sức mình chứ không bắt kẻ khác phải hy sinh thay thế cho mình.

Cũng như tâm Từ, tâm Bi trong tác động của nó cũng vấp phải cùng một chướng ngại đó chính là tình cảm. Theo đó, tâm Bi chân chính cũng phải đặt ngoài tình cảm. Tâm Bi mà do cảm kích, xúc động mà sinh ra chính là cái buồn thường tình của thế sự. Tâm Bi của Đức Phật không như thế, tâm Bi của không phải hành động với chắc lưỡi, hít hà, sa lệ. Tâm Bi cũng như tâm Từ, là một tâm trạng trong trẻo, sáng suốt, bình thản, nhận định rõ ràng, không bị nội tâm hay ngoại cảnh kích thích cũng như không bị cảm kích xúc động.

Trong kinh của một Cổ giáo, có câu chuyện kể rằng một người đàn bà tay ôm xác đứa con của mình mới chết đến trước mặt vị Giáo chủ và van xin Ngài cứu sống đứa bé. Vị Giáo chủ đã động lòng thương xót và dùng phép thần thông nhằm cải tử hoàn sinh cho đứa trẻ. Đây chắc chắn là một tấm lòng từ ái, nhưng đấy lại chỉ là một tấm lòng thương xót do xúc động tình cảm làm phát xuất. Trước sự khổ đau của người khác, lòng thương sẽ bị cảm kích và cố gắng chấm dứt sự đau khổ cho người ấy. Đây là lòng thương xót của một người giàu tình cảm, giàu lòng bác ái. 

Tuy nhiên, thử nghĩ, đứa trẻ kia khi được cứu sống thì đó cũng chỉ là một giải pháp tạm thời nhằm làm xoa dịu cơn đau của người mẹ trong hiện tại. Rồi đây, đứa trẻ ấy cũng sẽ già nua, sẽ đau ốm bệnh hoạn và sẽ chết nữa. Cứu đứa trẻ sống lại chỉ là làm êm dịu cơn đau mà không diệt hẳn nó đi được. Đây chỉ là hoàn dịch chứ không phải là miễn dịch vĩnh viễn.

tu-bi-hy-xa-84

Tâm Bi của Đức Phật là một tâm trạng bình thản, trong trẻo, không bị nội tâm hay ngoại cảnh kích thích cũng như không bị cảm kích xúc động

Vậy trong một trường hợp tương tự, Đức Phật sẽ làm như thế nào?

Theo kinh điển có chép rằng, một ngày nọ có người đàn bà tên là Gotami có một đứa con nhỏ mới chết vì bệnh. Chị đã đau khổ than khóc thảm thiết. Cùng lúc ấy, Đức Phật đang trên đường hoằng pháp ở một nơi gần đó. Chị liền bế xác con mình đến trước Đức Phật van lạy xin cứu sống cho đứa bé. Đức Phật bình tĩnh hiền từ bảo chị ấy hãy đi tìm cho Ngài một nắm hạt cải trong một gia đình mà từ trước đến nay chưa có người chết để đem về cho Ngài làm phép. 

Vâng theo lời đức Phật dạy, chị chạy khắp tất cả nhà trong xóm cùng làng mà không tìm đâu ra được thứ hột cải đó. Chị bèn trở về bạch cùng Đức Phật rằng: “Hạt cải thì ở đâu cũng có nhưng nhà mà từ trước đến nay không có người chết thì chị không thể tìm ra”. Lúc ấy, Đức Phật mới dạy rằng: “Có sinh là có tử ; tử sinh – sinh tử, tan hợp hợp tan là định luật tự nhiên chung cho tất cả chúng sinh; thành trụ hoại diệt, là lẽ thường của vạn vật”. Lý vô thường hoàn toàn chi phối toàn bộ vũ trụ và nhân sinh vật, chỉ có Bát Chính Đạo là con đường để thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi mà thôi.

Qua câu chuyện trên đây, ta có thể thấy rõ được tâm Bi của Đức Phật: không dửng dưng, không xúc động vì tình cảm trước sự đau khổ. Trái lại, tâm Bi của Ngài là bình tĩnh sáng suốt, chỉ rõ đâu là giải pháp khả dĩ làm dứt tuyệt điều đau khổ; không chia sớt để làm dịu cái khổ.

3. HỶ (MUDITA)

Cũng giống như Bi, Hỷ chính là vui do cái vui của người khác. Thế thường người đời vì tư lợi, ích kỷ và ganh tị, vì tham, sân, si mà trong lòng không có được đức Hỷ, không thể chia niềm vui hỷ lạc với người khác khi thấy họ có một thành công nào của họ. 

Trong lòng một khi đã không có Bi thì tức không thể có Hỷ. Nói cách khác, khi lòng ta không thông cảm được với cái đau khổ của kẻ khác thì dĩ nhiên ta lại càng không thể thành thật và vui vẻ trọn vẹn cùng với kẻ khác với cái vui của họ. Chướng ngại duy nhất làm con người chúng ta không thể có được lòng Bi, lòng Hỷ đó chính là lòng ích kỷ, vị ngã, tham lam. 

Khi thấy một người nào hân hoan, vui vẻ một toại nguyện, một thành công nào đó của họ, tức thì lòng ta sẽ đâm ra ham muốn, thèm thuồng cái thành công ấy. Mặc dù bên ngoài ta chúc mừng, khen tặng, thì ở thâm tâm, trong tiềm thức của ta vẫn luôn có một ám ý tham muốn một phần nào. 

Bấy nhiêu đó đủ làm cho cái vui, cái Hỷ của ta không được hoàn toàn trong sạch cũng như hoàn toàn đặt ngoài cái bản ngã của ta. Phàm cái bản ngã của ta đã còn chính là còn ba chướng ngại vật: Tham, sân, si.

tu-bi-hy-xa-86

Hỷ là hoan hỷ, vui mừng thành tâm với hạnh phúc, thành công, thành quả của người khác

Cũng giống với lòng Từ và lòng Bi, lòng Hỷ phải được rải ở khắp mọi nơi, không bị giới hạn ở một phạm vi riêng biệt nào. Chẳng hạn như sau:  Nếu tín đồ của một tôn giáo nào khác mà hơn ta; tổ chức, cương quy của họ hơn của ta; phương tiện, thế lực phong phú dồi dào hơn ta, thì lòng Hỷ chẳng những dạy ta không nên sinh lòng ganh tị, mà trái lại còn dạy ta phải thành tâm trọn vẹn vui mừng chung cùng với họ. Ta phải lấy sự thành công của người khác làm gương sáng cho mình để cố gắng thành công. Làm được như thế thì ta mới hoàn toàn thực hành được lòng Hỷ trong Tứ vô lượng Tâm.

Tóm lại, Hỷ không phải là hả hê của tâm hồn hay xác thịt bị cảm kích nhất thời ở thường tình và thế tục; nó không phải là trạng thái vui tươi thành thật bên ngoài nhưng trong thâm tâm hay tiềm thức lại còn ẩn một niềm ham muốn ước ao. Hỷ phải là một trạng thái của tâm hoàn toàn trong trẻo, thanh tịnh, không vị ngã, lấy cái vui của người khác làm cái vui cho ta mà không ý mong lợi lộc gì vì ta đặt cái vui của ta ngoài bản ngã.

4. XẢ (UPEKKHA)

Xả là một trạng thái của tâm, khiến giữa ta và toàn thể chúng sinh, vạn vật không còn sự chia cách, riêng biệt, chúng sinh cùng với ta trở thành một thể đồng nhất. Ngoại cảnh, vũ trụ cùng vô lượng chúng sinh cũng trở thành ta và ta đã trở thành chúng sinh, vũ trụ.

Tâm Xả là tâm không còn bị chi phối, kích thích, gigiao động, lúc này lòng buông xả, không bám chấp vào bất cứ điều gì nữa. Đặt tâm Xả ngoài cái tôi, cái ta là cả một chướng ngại vật làm cho ta thấy được một bên là bản thân và bên kia là kẻ khác, là vạn vật, là sinh linh, và cũng là bản ngã của nó. Một khi cái tôi không còn nữa, tức thì cái gì không phải của bản thân trước kia sẽ không còn phân biệt được nữa. 

Lúc này, chúng ta sẽ đồng thể hóa với toàn thể chúng sinh và vạn vật bằng cách tiêu diệt sự đối chiếu, sai biệt giữa bản thân và ngoại cảnh, tiêu diệt bởi vì đã diệt ngã. Diệt ngã là không còn sự lựa chọn, đối chiếu, luyến ái, bám giữ; không còn lấy cái tôi của bản thân làm tiêu chuẩn, làm chỗ chứa đựng. 

Lúc ấy, người có được tâm Xả đã trở thành như một tấm gương trong phản chiếu lại tất thảy sự vật chứ không từ khước, xua đuổi. Người có tâm Xả không phải là con người lì lịch, không có thái độ thờ ơ trước cảnh đau thương của thế sự. 

tu-bi-hy-xa-877

Xả là buông xả, không còn bám chấp vào bất kỳ điều gì

Chẳng hạn như trong làng bên cạnh có bệnh truyền nhiễm khủng khiếp. Lúc này, người giàu lòng bác ái sẽ can đảm đi vào cứu giúp đồng loại, không nề hà nguy hiểm, gian lao. Theo đó, khi thành công thì chắc chắn sẽ vui mừng, sung sướng do thành công của mình còn khi rủi thất bại thì lại hối tiếc, buồn rầu. Tuy nhiên, thay vào đó là người có tâm xả cũng xông vào tận lực cứu giúp, cũng không nề hà nguy hiểm, thế nhưng rốt cuộc, dù là thành công hay thất bại thì lòng cũng không xao xuyến, không chao động và kết quả của việc làm không ảnh hưởng được gì đối với tâm Xả. 

Như đã nói ở trên, tâm Xả phản chiếu lại trung thành sự vật, phản chiếu lại với vạn vật sinh linh do Từ, do Bi, do Hỷ. Tuy vậy, nó chỉ phản chiếu mà không bám giữ lại bất kỳ hình ảnh tốt hay xấu, vui hay buồn gì của vạn vật.

Tứ vô lượng tâm có thể được ví như chiếc hộp ba góc. Ba mặt thành của hộp chính là Từ, Bi và Hỷ còn phần đáy hộp là Xả. Theo đó, hộp không có đáy thì vô ích, sẽ không thể dùng vào bất kỳ mục đích gì được. Từ đó thấy được rằng, có Từ, có Bi, có Hỷ mà không có Xả thì Tứ vô lượng tâm sẽ không thành. Thật thế, Từ, Bi, Hỷ mà không Xả thì thương, buồn, vui vẫn còn vì ta; chưa Xả được thì tâm vẫn còn vấn vương với tham, sân, si. Mà vẫn còn ba chướng ngại này thì làm sao gọi được là thương, buồn, vui ngoài ta, không vì ta.

Tứ vô lượng tâm là bốn trạng thái của tâm khiến con người chúng ta thương tất cả, buồn cái buồn của chúng sinh, vui vì cái vui của tha nhân và vạn vật, mà trong khi thương, vui, buồn thì tâm đều Xả. Vậy muốn đạt được tâm Từ, Bi, Hỷ, tất phải nhờ vào tâm Xả chính là điều kiện duy nhất. Mà để đạt được tâm Xả thì tức chỉ có một lối đi hữu hiệu nhất đó chính là hành thiền.

Chuyện là lúc còn là Thái tử Siddharta, khi Đức Phật đi dạo ngoài thành, liên tiếp bốn lần Ngài đã trông thấy một người bệnh hoạn, lần kế tiếp là một người già cỗi, lần nữa là một xác chết và cuối cùng là một nhà đạo sĩ. Trước sự đau khổ của đời người, lòng Thái tử đã vô cùng thương xót, nhưng không như thói thường trong thế sự, Ngài không vỗ về an ủi hay giúp đỡ bằng tài vật để làm dịu bớt cái thống khổ ấy. 

Thái tử suy nghĩ, đặt ra bao câu hỏi rồi cố bước ra khỏi chỗ thường tình, quyết cắt đứt dây luyến ái với một lòng tìm cho kỳ được nguồn cội của sự đau thương phiền não, để từ đó chữa cho được căn bệnh của chúng sanh từ vô lượng kiếp. Rồi một ngày, trong chốn rừng sâu, nhằm vào đêm trăng sáng, dưới cội Bồ đề, Ngài đã tìm ra được giải pháp duy nhất để dắt chúng sanh ra khỏi vòng đau khổ, đem họ đến chỗ yên vui thanh tịnh, thoát ra ngoài khỏi cái quanh quẩn phiền não tử sinh, sinh tử chính là tâm Xả. Bởi lẽ, tâm đã Xả tức là được Hỷ, được Bi, được Từ đúng chân lý của Tứ vô lượng tâm mà Ngài đã vạch ra.

Từ, Bi, Hỷ, Xả là bốn liên phược tâm trạng mà người Phật tử phải tu cho kỳ được bằng cách chiến thắng năm chướng ngại là tham dục, sân hận, lười biếng, phiền não và hoài nghi. Đây là những chướng ngại khiến cho bao nhiêu cố gắng tham thiền không đem lại kết quả. Và để đạt thành Tứ vô lượng tâm, người Phật tử cũng phải vứt bỏ đi ba lớp đè nặng tâm chính là tham, sân và si.

tu-bi-hy-xa-83

Thân Tâm giữ vững trước sự vô thường thế tục, thản nhiên trước sự thay đổi của thế nhân

Trên đây là những trích dẫn, thông tin Phật giáo giải thích chi tiết về Tứ vô lượng tâm hay còn gọi là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Hy vọng rằng bài viết này của Vật phẩm Phật giáo sẽ đem đến cho các Phật tử các thông tin hữu ích. Chúc mọi người sớm tu hành chánh quả. 

Nam Mô A Di Đà Phật!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

.
.
.