Mật Tông là gì? Tổng hợp thông tin về Phật giáo Mật Tông

mat tong la gi

“Mật Tông là gì?” là một khái niệm không quá xa lạ đối với các nhà tu hành lâu năm. Tuy nhiên, với nhiều phật tử, tín đồ hay những người đang tìm hiểu về lịch sử, văn hóa đạo Phật thì có lẽ đây là một thuật ngữ vô cùng trừu tượng. Chính vì vậy, trong bài viết này, Vật phẩm Phật giáo sẽ chia sẻ toàn bộ các thông tin về nguồn gốc, pháp khí của Mật Tông để các bạn tham khảo.  

mat tong la gi

Mật Tông là gì? Tổng hợp thông tin về Phật giáo Mật Tông

I. Khái niệm Mật Tông là gì?

Theo Wikipedia: “Mật Tông là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ.”

Mật Tông được chia thành hai phái, gồm: Chân ngôn thừa (Mantrayana) và Kim cương thừa (Vajrayana). Sự phát triển của pháp môn này gắn liền với nhiều luận sư nổi tiếng như: Subha Karasimha (Thiên Vô Úy, 637-735) đến Vajra Bodhi (Kim Cương Trí, 671-741), Amoghavajra (Bất Không Kim Cương, 705-774), Padmasambhava (Liên Hoa Sinh vào cuối thế kỷ thứ VIII), Dipankarasrijanàna (Atisa vào cuối thế kỷ thứ XI). Trong đó, Padmasambhava và Dipankarasrijanàna là những người góp phần đưa Mật Tông vào Tây Tạng và biến nó trở thành tôn giáo chính tại nơi đây. 

Mật Tông còn có nhiều tên gọi khác như Mật giáo, Kim cương thừa, Chân ngôn môn hay Mật thừa… Đây là một pháp tu bí mật của Đức Phật, dạy về cách “bắt ấn” hoặc “trì chú”… Pháp tu này căn cứ vào nơi tâm pháp bí truyền với tính chất liễu nghĩa (trọn đủ). 

Trong các pháp môn mà Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng sinh nương theo tu tập trong thời buổi “Mật pháp” sau này thì hành môn nào cũng đều có tôn chỉ thù thắng vi diệu. 

II. Giới thiệu về các Phật giáo Mật Tông trên toàn thế giới

1. Phật giáo Mật Tông tại Trung Quốc

mat tong la gi

Mật Tông xuất hiện tại Trung Quốc vào khoảng thế kỷ 7 và ngày càng phổ biến ở thế kỷ 8

Mật Tông du nhập vào Trung Quốc vào khoảng thế kỷ 7 và trở nên thịnh hành vào thế kỷ 8 khi có sự xuất hiện của ba vị Cao tăng Ấn Độ đến truyền pháp là Thiện Vô Uý, Kim Cương Trí và Bất Không Kim Cương. 

Ba vị này đã được tôn vinh là Khai Nguyên Tam Đại Sĩ. Dòng truyền thừa vào Trung Quốc được xuất phát từ trung tâm Phật học Na-lan-đà.

Cả ba ngài đều từng được đệ tử của Ngài Long Thọ là Sư Long Trí truyền pháp. Thiện Vô Úy được coi là tổ sư của Mật tông Trung Hoa. Đồng thời, ngài cũng là người dịch loại kinh căn bản của Mật Tông – Đại Nhật kinh (sa. mahāvairocana-sūtra) ra bản chữ Hán. 

Hai dòng Mật tông Ấn Độ Chân Ngôn thừa và Kim Cương thừa truyền đến đệ tử của Thiện Vô Úy – đại sư Nhất Hạnh đã được nhập lại làm một. Tại Trung Quốc, Mật Tông rất hưng thịnh vào đời Đường nhưng dần thoái trào và sau này thì tưởng như đã suy vi hẳn.

2. Phật giáo Mật Tông ở Tây Tạng

mat tong la gi

Mật Tông du nhập vào Trung Quốc khoảng cuối thế kỷ VIII 

Trước khi Mật giáo được truyền vào Tây Tạng thì dân chúng nơi đây chưa có bất kỳ một tôn giáo nào đậm nét. Tại đây, đạo Bon là đạo giáo cổ truyền của dân bản xứ. Theo đó, họ chỉ biết thờ các vị chư thần kể cả hung thần hay ác quỷ.

Pháp môn Mật tông được truyền vào Tây Tạng muộn hơn so với Trung Quốc. Vào khoảng cuối thế kỷ 8, vua Trisong Detsen (740-786) đã có thỉnh cầu rước hai vị cao tăng Ấn Độ là Đại Sư Liên Hoa Sinh (Padma-Jungne) và Antarakshita. Tại đây, Kim cương thừa đã kết hợp với Phật giáo Đại thừa sẵn có của Tây Tạng để tạo thành Lạt Ma giáo. 

Mật Tông ở Tây Tạng có 4 tông phái chính sau:

  • Phái Cổ Mật hay Cựu phái (Nyingmapa, Ninh mã phái): Đây là tông do Đại Sư Liên Hoa Sinh (Padma-Jungney) sáng lập vào năm 749. Ngài cũng là giáo sư danh tiếng ở viện đại học Nalanda Phật giáo.
  • Phái Mật Tông Kagyu ( hay Ca-nhĩ-cư phái)
  • Phái Mật Tông Sakya (hay Tát-ca phái)
  • Phái Hoàng Mạo (Guelugpa, Cách-lỗ phái): Tông phái này do ngài Tsongkhapa, quê ở miền bắc Tây Tạng thành lập vào thế kỷ 14. Lúc này, Phật giáo đã bị mê mờ vì có nhiều tin điều sai lầm, huyễn hoặc. Vị sư này đã dùng những tư tưởng cao sáng để khuyên nhủ người tu hành nên tinh tiến tu, tham thiền hỏi đạo và trai giới đạo hạnh. Cuộc cải cách tôn giáo của ngài cũng mang lại nhiều hiệu quả vững bền. Về sau, pháp của Sư cũng đổi tên thành Lạt-ma-giáo và trở nên đứng đầu nhà nước Tây Tạng do Đức Đạt-lai Lạt-ma nắm giữ cai trị dân chúng và trông nom mối đạo.  

Phật giáo Mật Tông cũng chủ trương sự tự giác ngộ bằng cách thiền định (meditation) và niệm chân ngôn (mantra). Dòng truyền thừa vào Tây Tạng cũng xuất phát từ trung tâm Phật học Vikramasila. 

3. Phật giáo Mật Tông ở Việt Nam

mat tong la gi

Phật giáo Mật Tông xuất hiện tại Việt Nam từ khá sớm, vào thế kỷ thứ VI

Mật Tông truyền vào Việt Nam từ khá sớm. Cụ thể, theo Thiền uyển tập anh, vào thế kỷ thứ VI, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã từ Ấn Độ đến Việt Nam và dịch kinh Đại thừa phương quảng tổng trì tại chùa Pháp Vân. Đây được xem là một bộ kinh của Mật giáo đã liên hệ rất nhiều đến Thiền. 

Vào thời Đinh và Tiền Lê, Mật Tông đã khá hưng thịnh tại Việt Nam. Các trụ đá đã được tìm thấy tại Hoa Lư, Ninh Bình vào năm 1963, 1964 và 1978. Có những trụ đã được dựng vào thời Đinh, năm 973 hoặc năm 995, thời Lê Đại Hành. Chúng đều được khắc bản kinh Phật đảnh Tôn thắng Đà La Ni (Usnisa Vijaya dharani) – một bản kinh rất phổ biến của Mật giáo. 

Tất nhiên, Mật Tông thịnh hành không phải do mỗi ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi mà còn từ Phật giáo.

Để có sự hưng thịnh như vậy, bên cạnh ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì Mật Tông cũng nổi tiếng nhờ Phật giáo Chiêm Thành, các tăng sĩ ngoại quốc và các vị sư Việt Nam thọ học từ Ấn Độ. Trong đó, có ngài Mahamaya, gốc Chiêm Thành thuộc đời thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và từng theo học ngài Pháp Thuận – Pháp hành sám và trì tụng chú Đại bi cũng vô cùng nổi tiếng về loại pháp thuật này. 

Theo Thiền uyển tập anh, ông đắc pháp Tổng trì Tam muội và thi triển nhiều pháp thuật khiến vua Lê Đại Hành và dân chúng nể phục. Một vị thiền sư Việt là ngài Sùng Phạm (mất năm 1087), đời thứ 11 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã đến Ấn Độ 9 năm và sau mở trường dạy tại chùa Pháp Vân. Ngài có đệ tử là sư Từ Đạo Hạnh cũng nổi tiếng về phù chú cùng sư Trì Bát cũng thấm nhuần Mật giáo. 

Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép thêm về một vị tăng sư Ấn Độ vào năm 1311 đã đến nước ta, xưng là 300 tuổi và theo Mật giáo, có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước. Năm 1318, vua Anh Tông cũng mời một tăng sĩ Ấn Độ là Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi đến dịch một bộ kinh Mật giáo có tên là Bạch Tán Thần chú kinh.  

Trong Nam, có Hòa Thượng Nhẫn Tế thế danh Nguyễn Văn Tạo, sinh năm 1889 tại thôn An Thánh (nay là thị trấn Lái Thiêu), tỉnh Bình Dương từ nhỏ đã vô cùng hâm mộ đạo Phật. Năm 1904, khi đã 16 tuổi, ông đến chùa Thiên Tôn trong vùng để quy y với Hòa Thượng Ấn Thành – Từ Thiện, pháp danh Chơn Phổ. Sau khi học hành thành tài, ông đã đi làm việc nhưng vì có bệnh nên phải xin nghỉ dưỡng bệnh. 

Năm 1926, chùa Thiên Thai ở Bà Rịa có giới đàn thì ông đã đến xin thọ giới do Đầu đàn Hòa Thượng Huệ Đăng truyền giới và được ban pháp danh là Trừng Liễn, pháp hiệu Minh Tịnh thuộc đời thứ 42 Thiên Thai Thiền Giáo Tông.

Năm 1933, chùa Thiên Tôn mở Đại giới đàn, ông tiếp tục xin thọ giới do Đầu dàn Hòa Thượng Ngộ Định – Từ phong truyền giới và được ban pháp hiệu Nhẫn Tế để trở thành đệ tử nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh chùa Thiên Tôn.

Ngày 17/4/1935, ông đã lên tàu đi Ấn Độ, chiêm bái và học Phật. Sau đó, có sang Nepal nhận được Xá lợi Phật rồi sang Tây Tạng ngày 28/6/1936, được yết kiến Nhiếp chánh Quốc vương Tây Tạng và được Lạt ma Nhiếp chánh nhận là tu sĩ Tây Tạng với pháp danh Thubten Osall Lama (Huệ Phát) để ông đắc pháp Mật Tông Tây Tạng. 

Đến ngày 29/10/1936, ông đã rời khỏi Tây Tạng và trở lại Ấn Độ để học hỏi thêm một thời gian và trở về xứ. Ông đã trở lại am thất cũ của mình tại Bình Dương vào ngày 30/6/1937. 

Ở Phú Cường có ngôi chùa Bửu Hương, các Phật tử nơi đây quy ngưỡng nên dâng cúng chùa cho ông. Ông đã đổi tên chùa thành Tây Tạng tự rồi tu tập và truyền bá Mật Tông. Tuy nhiên, do Phật giáo thời bấy giờ nên Mật Tông của sư Nhẫn Tế không lan rộng và không lập nên Giáo hội. Hòa thượng Nhẫn Tế viên tịch vào ngày 17/5/1951, thọ 63 tuổi, đắc 25 hạ lạp và là Lama Việt Nam đầu tiên, được chính Nhiếp chánh quốc vương Tây Tạng ấn chứng.

Ở Huế cũng có Mật Tông lưu truyền, vào thập niên 60, Hội Phật Học Nam Việt đã thỉnh chư Tăng từ Huế vào chùa Xá Lợi làm lễ Trai Đàn Cứu Tế thì các vị tăng này đã hành lễ theo nghi thức Mật Tông Trung Hoa. 

Thích Viên Đức có dịch một bộ Mật Tông bao gồm các quyển sách như Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm yếu, Kinh Chuẩn Đề Đà La Ni Hội Thích (hay Kinh Thất Cu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết), Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương và Kinh Mạt Pháp Nhất Tự Đà La Ni.

Đặc biệt, năm 1992, theo lời mời riêng của đại sứ Anh tại Bhutan lúc bấy giờ –  ông John hòa thượng Thích Viên Thành trụ trì Chùa Hương – Hà Nội đời thứ 11 đã viếng thăm Vương quốc Bhutan. Ông đã hạnh ngộ bậc Kim Cương Thượng sư truyền thừa Drukpa là Đức Giáo chủ Je Khenpo và thọ nhận những Giáo pháp Quán đỉnh cốt tủy của truyền thừa Drukpa từ bậc thầy của mình nhằm hướng dẫn các đệ tử, Phật tử thực hành giáo pháp tinh túy và chân chính của Kim Cương thừa.

Trong suốt cuộc đời hoằng pháp độ sinh của mình, với mong muốn có thể đem sự thực hành tâm linh lợi ích cho nhân dân Việt Nam, thắp sáng truyền thống Kim Cương thừa vốn đã từng được truyền vào Việt Nam vào cách đây hơn 1.000 năm thì hòa thượng Thích Viên Thành đã thiết lập mối nhân duyên Phật pháp với những bậc Thượng sư Truyền thừa Drukpa, truyền thống Phật giáo Đại thừa – Kim Cương thừa nổi tiếng với khả năng tu chứng và sự thực hành tâm linh thanh tịnh của các bậc Yogi giác ngộ cùng di sản tâm linh quang vinh siêu việt suốt 800 năm phụng sự nhân loại và vũ trụ.

III. Phật giáo Mật Tông sẽ thờ ai?

mat tong la gi

Phật giáo Mật Tông sẽ thờ các vị Phật trong Mật Tông Kim Cương Thừa

Mật Tông sẽ thờ những vị Phật trong Mật Tông Kim Cương Thừa. Trong trường phái Mật Tông thì sẽ thường có hình ảnh Ngũ Phương Phật hay Ngũ Trí Như Lai như:

  • Đại Nhật Như Lai ( hay Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Vairochana).
  • A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya) hay còn gọi Phật Dược Sư Mật Tông.
  • Bảo Sanh Như Lai ( hay Ratnasambhava).
  • A Di Đà Như Lai (Amitabha) hay còn gọi Phật A Di Đà Mật Tông.
  • Bất Không Thành Tựu Như Lai (hay Amoghasiddhi).

Bên cạnh đó, Mật Tông còn thờ những vị Bồ Tát trong Mật Tông như:

  • Đức Quán Thế Âm Bồ Tát,
  • Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát,
  • Đức Phổ Hiền Bồ Tát,
  • Đức Địa Tạng Bồ Tát,
  • Đức Quán Thế Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay,
  • Đạo Sư Liên Hoa Sanh,
  • Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara….

Bát Đại Hộ Pháp Mật Tông Tây Tạng bao gồm:

  • Yama: (Dạ Ma) Thần chết,
  • Mahakala: Đại Hắc Thiên,
  • Yamantaka (Hàng Phục Dạ Ma),
  • Kubera (Vaisravana, Jambhala và Tài Bảo Thiên Vương),
  • Hayagriva: Mã Đầu Minh Vương,
  • Palden Lhamo: Vị nữ thần,
  • Tshangs Pa or ‘White Brahma’ ( hay Phạm Thiên Trắng),
  • Begtse: Thần Chiến Tranh.

IV. Những pháp khí trong Mật Tông

1.  Pháp khí phong phú

mat tong la gi

Phật giáo Mật Tông sở hữu tới 6 loại pháp khí khác nhau 

Pháp khí hay Phật khí, Phật cụ, pháp cụ, đạo cụ…được hiểu theo nghĩa rộng là tất cả các dụng cụ dùng để tu chứng Phật pháp cũng như thực hành các loại pháp sự để dâng pháp cúng dường trong các chùa viện Phật giáo. Đây cũng có thể là các loại công cụ mà chúng Tăng sử dụng trong tư pháp và tu hành hàng ngày. Theo nghĩa hẹp, đây là các dụng cụ cúng dường chư Phật sử dụng trong các Pháp hội Đàn nghi, Đạo tràng trang nghiêm…

Trong Mật tông, có đến 6 loại pháp khí gồm: Các vật dùng khi hoằng hóa (như vòng ma ni, đá cầu nguyện), các vật dùng khi hộ ma (như đàn lửa, bình quý, muôi hộ ma), những vật dùng khi kính lễ (như áo cà sa, khăn ha-da, vòng cổ), các vật dùng khi tán tụng (như trống, chuông, mõ, kèn), những vật dụng khi cúng (như lư hương, cờ, ô dù, hoa) và các vật dùng khi trì niệm (như mạn đà la, Chày Kim Cang, tràng hạt niệm phật, chuông kim cương). 

2.  Chày Kim Cang

mat tong la gi

 Chày Kim Cang biểu tượng cho Phật tính với tính chất không thể phá bỏ và thường hằng

Chày Kim Cang hay Kim Cang Chùy, Kim Cương Chùy, Kim Cang Chử hoặc Kim Cương Chử là một trong các biểu tượng quan trọng của Phật giáo và Ấn Độ giáo. Đặc biệt, nó cũng là biểu tượng của dòng Kim Cương Thừa của Mật Tông. 

Chày Kim Cang là biểu tượng tinh túy của truyền thống Kim Cương thừa – một pháp khí khởi nguồn từ chất liệu kim cương. Theo thuật ngữ tiếng Phạn, Kim Cương có nghĩa là bất hoạt, đầy uy lực, rực rỡ và không thể bị cắt rời, phá vỡ. Chày Kim Cang cũng biểu trưng cho Phật tính với tính chất không thể phá hủy và thường hằng. 

3. Chày Yết Ma ( hay Chày Kim Cang hình chữ thập)

mat tong la gi

Chày Yết Ma là biểu tượng cho chí tác nghiệp vốn có của các chư phật

Chày Yết Ma hay yết ma kim cương, thập tự yết ma, thập tự kim cương và luân yết ma là một pháp khí của Mật Giáo. Chày có 3 cạnh đặt giao nhau tạo thành hình chữ thập, tượng trưng cho chí tác nghiệp vốn có của chư phật. Khi tu pháp, bốn góc trên đàn lớn đều đặt một yết ma kim cương có ý nghĩa tượng trưng cho sự phá trừ 12 nhân duyên. 

4.  Chuông Kim Cang

mat tong la gi

Chuông Kim Cang là pháp khí âm nhạc thường thấy trong các nghi lễ Mật thừa

Chuông Kim Cang hay chuông pháp là một pháp khí âm nhạc phổ biến và không thể thiếu trong nghi lễ Mật thừa giúp xua tan phiền não, ma quỷ. Dưới phương diện nghi thức thì chuông Kim Cang và Chày Kim Cang là một cặp với nhau. 

Cán cầm của chuông Kim Cang có kích thước bằng một nửa chày Kim Cang và một nửa còn lại có thân hình là chiếc chuông tương đối lớn. Hai hình đó hợp lại tạo thành vẻ đẹp huyền ảo của chuông pháp. Chuông có 3 phần, gồm: Chốt Kim Cang, bầu chuông và khuân diện. Ba phần này đại diện cho tam giới gồm: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. 

Với bài viết trên, Vật phẩm Phật giáo đã gửi đến bạn đọc đầy đủ và chi tiết câu hỏi Mật Tông là gì cũng như giới thiệu các Phật giáo Mật tông trên thế giới và các pháp khí có trong pháp môn này. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào hoặc có nhu cầu sử dụng các vật phẩm Phật giáo, vui lòng liên hệ đến số hotline 086.767.1366 hoặc  nhắn tin trực tiếp tại website vatphamphatgiao.com để được tư vấn tận tình.

Nam mô A Di Đà Phật!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

.
.
.