Sự ra đời và con đường tu tập của La Hầu La – vị Sa-di đầu tiên của Đức Phật

la-hau-la

Đức La Hầu La là người con duy nhất của Đức Phật lúc Ngài chưa xuất gia. Theo đó, con đường tu tập và chứng ngộ của đức La Hầu La do đó có rất nhiều sự việc, diễn biến xoay quanh. Mời quý bạn đọc theo dõi loạt truyện về hạnh của ngài La Hầu La Đệ Nhất Mật Hạnh trong bài viết dưới đây của Vật phẩm Phật giáo.

I. La Hầu La – Cậu bé hạnh phúc

Đức Phật khi còn là thái tử vương thành Ca-tỳ-la, đã kết hôn với công chúa Da-du-đà-la và sinh hạ La Hầu La vào năm hai người mười chín tuổi. Lúc ấy, thái tử đã rất vui mừng, tuy nhiên, đây không phải là sự vui mừng giống mọi người khác khi sinh con. 

Bởi lẽ, vào thời trẻ, thái tử đã nhiều lần xin vua cha được đi xuất gia nhưng đều không được chấp thuận. Vua Tịnh Phạn nói: “Trừ phi có được đứa cháu đích tôn thì mới cho phép thái tử xuất gia”. Do đó, ngay khi sinh được con trai là La Hầu La, thái tử đã báo ân được như ý phụ vương nên lúc này nguyện vọng xuất gia của thái tử đã đạt được.

Đêm ngày mùng tám tháng hai, lúc ấy La Hầu La mới sinh được bảy ngày và đây cũng là lúc mà thái tử rời khỏi hoàng cung. Khi vương phi Da-du-đà-la đang ôm La Hầu La trong tay nằm ngủ, thái tử lén vén rèm, nhìn hai người lần cuối, và quay lưng, leo lên ngựa, vượt thành ra đi. Trước giờ cáo biệt, thái tử đã định bế đứa con đang ngủ nhưng lại sợ làm động Da-du-đà-la thức dậy, làm cản trở việc xuất gia. Do đó, khi nhìn con lần cuối, Ngài đã nói: “Hãy đợi đến khi ta thành Phật, sẽ trở lại thăm con!”

Xem thêm các bài viết liên quan đến kiến thức Phật giáo liên quan khác: 

la-hau-la

Thái tử vén màn nhìn hai người lần cuối rồi quay lưng ra đi tìm con đường chính quả

Từ đó, La Hầu La đã phải xa lìa hình bóng người cha thân yêu của mình. Tuy vậy, thái tử sau khi xuất gia thành Phật, thân phụ đổi thành lão sư và về sau đã độ La Hầu La trở thành Thánh quả. 

La Hầu La xa cha nên được mẹ và ông ngoại thương yêu, chiều chuộng, là vương tôn độc nhất vô nhị. Tuy nhiên, sau chuỗi ngày vô tư trôi qua trong cung, đến khi vừa hiểu biết, trong tâm hồn của La-hầu-la cũng đã cảm thấy không có cha là một điều đáng buồn. Tuy nhiên, bù lại thì cậu bé được mẫu thân rất mực cưng chìu, che chở. Đó là niềm vui duy nhất và là nguồn an ủi của La Hầu La.

Trong thâm cung vắng vẻ, La Hầu La là nguồn hy vọng duy nhất của vương phi, hai mẹ con nương nhau cùng sống qua năm tháng. Có người nói rằng, Da-du-đà-la là phận nữ nhi khổ mệnh, La Hầu La là đứa trẻ đáng thương, nhưng đấy là nói theo thường tình thế gian. Nỗi khổ tâm của họ chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, bởi lẽ, hễ có hy sinh lớn thì tất thành tựu kết quả sẽ lớn.

Thời gian về sau, nhờ sự hóa độ của Đức Phật, Da-du-đà-la đã xuất gia khai ngộ và La Hầu La xuất gia được chứng quả. Đó mới là bậc nữ lưu vinh hạnh, là đứa bé hạnh phúc bậc nhất.

Đức Phật xem tất cả chúng sanh trên đời như La Hầu La, một La Hầu La không quan trọng bằng vô số La Hầu La đang trông đợi tình thương của Phật ngoài kia. Đức Phật đã ban cho chúng sanh biết bao lòng từ bi, do vậy, ở trong hoàn cảnh của La Hầu La thì lại càng dễ được hưởng lòng từ bi của Phật.

Chính vì lý do này, La Hầu La xa lìa phụ thân từ nhỏ không phải là sự việc đáng thương bởi La Hầu La chính là con của bậc đại thánh, được nuôi dưỡng trong tình thương cao rộng như đất trời, là một cậu bé hạnh phúc nhất trên đời.

II. La Hầu La – Chú bé không biết mặt Cha

Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo được ba năm, Ngài đã từ nước Ma-kiệt-đà ở phương Nam về thăm cố hương. Mọi người từ vua Tịnh Phạn cho đến nhân dân dòng họ Thích đều ra ngoài thành háo hức nghinh đón Phật, duy chỉ có vương phi Da-du-đà-la và La Hầu La là không tham dự.

Trong tâm bà Da-du-đà-la nghĩ thầm: “Khi Ngài đi xuất gia, ta đã vì Ngài mà chịu hết mọi điều khổ, Ngài mặc y phục bạc màu, ta ở trong cung cũng đã mặc giống Ngài, ta nghe Ngài tu khổ hạnh ăn một ngày một bữa, ta cũng đã tập làm theo. Ta đối với Ngài như vậy, thật hết lòng. Nếu Ngài còn nghĩ đến ta, tự nhiên Ngài sẽ đến cung thăm ta”.

Mười năm không gặp, lòng bà Da-du-đà-la cũng rất muốn được diện kiến Ngài, nhưng vì lễ phép, vì tự tôn mà bà đã phải nhẫn nại. Bà ngồi trên lầu cao nhìn ra để thấy được cảnh mọi người nghinh đón Đức Phật. Cậu bé La Hầu La vừa lên mười chạy đến nói với mẹ:

“- Mẹ mẹ, cha con đã về. Bà nội bảo con cho mẹ hay.”

Lúc này La Hầu La còn ngây thơ, không hiểu được tâm sự của mẫu thân. Cậu thấy dáng vẻ nghiêm nghị của mẹ nhưng vẫn ngây ngô hỏi:

“- Mẹ mẹ! Mẹ coi người ta ở ngoài cung nhiều biết bao. Cha nhất định cũng ở trong đó, cha con ra sao?”

Câu nói từ miệng La Hầu La càng khiến bà Da-du-đà-la thương tâm, nỗi lòng của người lớn, trẻ con hoàn toàn không thể biết. Bà Da-du một tay kéo La Hầu La vào bên mình, tay chỉ ra cửa, mắt rớm lệ nói:

“- Con nhìn xem! Trong số các thầy Sa-môn ngoài kia, người nào có vẻ trang nghiêm nhất chính là phụ thân của con.”

La Hầu La mở to đôi mắt, nhìn theo tay mẹ rồi nói:

“- Con chẳng nhận thấy được phụ thân đâu. Con chỉ biết có ông nội, còn người nữa là mẹ thôi.”

Lúc này, giọt nước mắt của bà đã rơi xuống mái tóc La Hầu La. Sau đó, bà nắm tay con rồi trở lui vào cung. Xa cách mười năm, hôm nay bà mới thấy lại được Đức Phật một lần, mười năm không tin tức thoáng qua như một giấc mộng.

Hai mẹ con từ trên nhìn xuống mọi người nghinh đón Đức Phật

Đức Phật biết tâm tưởng của bà, nên dắt Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên vào cung để thăm. Đức Thế Tôn trang nghiêm, im lặng, từ bi thương xót nhìn Da-du-đà-la đang quỳ dưới chân, La-hầu-la quỳ bên cạnh.

Da-du-đà-la xúc động rơi nước mắt, bà cũng biết giữa mình và Đức Phật có một sự ngăn cách không thể vượt qua. Đợi cho đến khi Da-du đã bình tĩnh lại, Đức Thế Tôn mới chậm rãi nói với bà:

“- Để nàng chịu nhiều tân khổ, tuy đó là sự thiếu sót của ta, nhưng ta đã vì tất cả chúng sanh mà ra đi. Hôm nay, ta đã đạt được bổn nguyện trong nhiều kiếp, nàng hãy hoan hỷ cùng với ta.”

Đức Phật nói xong, lại nhìn sang phía La Hầu La, từ hòa vỗ về cậu bé:

“- Thật mau quá, con đã lớn như thế rồi ư!”

Lúc ấy, La Hầu La chẳng biết phải gọi phụ thân của mình như thế nào. Bởi lẽ, đấy là một bậc Thánh trang nghiêm nên tự miệng cậu bé chẳng dám gọi “cha”. Vì thế, cậu đã xưng hô là Phật-đà, chẳng biết trúng hay không.

Thấy bao nhiêu vị Tỳ-kheo, Sa-môn đi theo Đức Phật, trong tâm cậu bé đã khởi nghĩ: “Đức Phật chẳng phải là phụ thân của một mình ta, Ngài là bậc đại từ phụ của tất cả chúng sanh!”. Mới mười tuổi, cậu bé đã chịu nguyện đem phụ thân của riêng mình hiến cho chúng sanh, thật là một cậu bé không tầm thường.

la-hau-la-11

Cậu bé La Hầu La bấy giờ quý dưới không biết gọi phụ thân của mình như thế nào 

III. Sa-di đầu tiên  

Đức Thế Tôn ở tạm lại trong hoàng cung vài ngày, do đó, trong cung điện vắng bóng cung nữ cũng chẳng có yến tiệc rượu chè, chỉ có một ngàn vị Tỳ-kheo đi theo Phật. Lúc này, cung điện tạm thời trở thành Tăng phòng tịnh xá. Đức Thế Tôn biết các thầy Tỳ-kheo sơ học, nếu ở lại lâu trong vương cung, sẽ dễ sanh tâm so sánh với lối sống đạm bạc của Tăng đoàn, do đó, chỉ vài ngày sau, Ngài đã đưa đại chúng về trụ tại rừng Ni-câu-đà ở cách thành Ca-tỳ-la không xa.

Tuy ở Ni-câu-đà, thế nhưng Đức Thế Tôn cũng thường về hoàng cung để trì bát khất thực hay thuyết pháp. Cậu bé La Hầu La ngây thơ liền nói với Ngài:

“- Phật-đà! Con rất thích được ở với Ngài.”

Câu nói ấy đã biểu lộ phụ tử tình thâm, Đức Thế Tôn cũng trả lời rằng:

“- Rồi cũng có ngày ta cho con sống gần bên ta.”

Sau khi Đức Phật nói không lâu, quả nhiên La Hầu La đã xuất gia theo luôn bên Ngài. Bởi lẽ, Da-du-đà-la đã khuyến khích La Hầu La thêm lanh lẹ, hoạt bát, mặc quần áo đẹp cho và bảo con rằng:

“- Con hãy đi theo phụ thân xin tài sản đi, cha con có những châu báu mà chúng ta chưa được thấy!”

Đức Phật cho La Hầu La gia tài của mình không phải là tài sản cao sang mà là tài sản xuất thế gian. Theo đó, Ngài đã thu nhận La Hầu La vào tăng đoàn. 

La Hầu La thường xin ở chung với Đức Phật và xin Ngài gia tài

Một hôm, đang lúc Đức Thế Tôn khất thực trở về rừng Ni-câu-đà, Ngài đi trước, La Hầu La lẽo đẽo chạy theo sau kêu:

“- Cho con gia tài! Cho con gia tài!”

Da-du-đà-la nhìn thấy đứa con duy nhất chạy theo sau lưng Phật, rất sợ La Hầu La bị đưa đi xuất gia, bất giác rơi nước mắt.

Đức Phật về đến rừng, gọi Xá-lợi-phất đến và nói:

“- Xá-lợi-phất! Cậu bé La Hầu La cứ đi theo ta xin gia tài, ta không muốn cho y thứ tài sản và hạnh phúc mong manh, ta muốn cho y thứ bảo bối vô giá. Này Xá-lợi-phất! Ông hãy cho y xuất gia và làm Sa-di đầu tiên của Tăng đoàn!”

Đức Phật nói xong, liền gọi Mục-kiền-liên cạo tóc cho cậu bé, dạy lễ bái Xá-lợi-phất làm thầy và truyền giới Sa-di cho La-hầu-la. Đấy là khởi nguyên của chúng Sa-di.

La Hầu La vốn là tất cả của bà Da-du-đà-la, bây giờ đã gia nhập Tăng đoàn, đó cũng là dụng ý của đức Phật. Khi còn là Thái tử và hạ sanh La Hầu La, Ngài đã rời bỏ ngôi vị và đắc thành Phật quả, do đó, vương vị mai sau của nước Ca-tỳ-la-vệ nhất định sẽ về tay La Hầu La.

Tuy nhiên, theo chủ trương của Đức Phật, để cho một đứa bé làm chủ cả bàn dân thiên hạ là chuyện không thể được. Vì thế, Ngài đã cho cậu bé xuất gia.

la-hau-la-555

La Hầu La trở thành vị Sa-di đầu tiên ở trong Tăng đoàn

La Hầu La xuất gia là một điều vô cùng đau buồn cho bà Da-du lúc đó chưa ngộ đạo  bởi cậu là nguồn hy vọng của bà, bà thương quý cậu hơn cả thân mình. Thái tử đã dứt áo ra đi, bây giờ người con duy nhất cũng xuất gia, đối với bà mọi thứ như sụp đổ.

Chúng ta cũng có thể thấu cảm với bà Da-du-đà-la khi trách Đức Phật nhẫn tâm, để cho bà chịu nhiều đau khổ. Thế nhưng chân lý và nhân tình là hai lối trái ngược nhau, phải hàng phục được tình cảm yếu đuối của thế nhân thì mới khế hợp được với chân lý pháp tánh.

IV. Tuổi trẻ nghịch ngợm, mẹ đi xuất gia

La Hầu La xuất gia làm Sa-di rồi, vương phi Da-du-đà-la cũng đành chịu, không biết làm sao hơn. Vua Tịnh Phạn thông cảm cho nỗi đau khổ của bà, bèn đến tìm Phật yêu cầu:

“- Bạch Thế Tôn! Mong rằng Ngài quy định từ nay về sau, những người trẻ tuổi muốn xuất gia phải được sự cho phép của cha mẹ.”

Đức Phật hoan hỷ nhận lời.

Lúc ấy, Da-du-đà-la chẳng còn hứng thú gì trên cõi đời, tất cả đều khô héo. Về sau, di mẫu của Phật là phu nhân Kiều-đàm-di đã xuất gia làm Tỳ-kheo-ni, Da-du thấy vậy cũng theo đoàn người họ Thích đến Tỳ-xá-ly xuất gia. Ban đầu, bà không hề cảm thấy được chút gì an lạc khi sống trong Tăng đoàn vắng lặng.

Tuy nhiên, nhờ có Đức Thế Tôn cảm hóa, chẳng bao lâu, bà được khai ngộ, có lại được niềm vui và đã cùng sinh hoạt bình thường, an ổn tự tại trong Phật pháp. Vì thế, bà rất vui mừng và cảm kích Đức Thế Tôn. Đức Phật cũng rất hoan hỷ, đến lúc ấy, Ngài mới hết trách nhiệm với bà.

la-hau-la-77

\Da-du-đà-la cũng đã theo đoàn người nữ họ Thích đi xuất gia

Chú Sa-di La Hầu La vì còn quá nhỏ, không thể tu hành giống như người lớn được. Vì thế, it lâu sau, khi Tăng đoàn có chế độ Sa-di, Xá-lợi-phất cũng dạy một chú tiểu nhỏ thành Sa-di Quân-đầu. Hai chú bé thường chơi chung với nhau và  những lúc vắng người, cả hai đều cùng bày ra những trò chơi trẻ con để đùa nghịch.

Một cậu bé mới lên mười tuổi, mỗi ngày sống trong Tăng đoàn nghiêm túc, nếu như đấy là ý nguyện của chú bé thì không sao, tuy nhiên, nếu vì hoàn cảnh ép buộc thì tâm lý của cậu bé sẽ có nhiều thay đổi.

La Hầu La xuất gia không thấy Tăng đoàn vui vẻ gì, nhưng bên ngoài mặt không để lộ nét bực bội. Với sự chỉ dạy của người lớn lúc ấy, cậu chỉ tự nhiên vâng theo. Nhưng ở khoảng tuổi ấy, theo bản năng tự nhiên, cậu sẽ có những bất mãn, những tư tưởng phản kháng lại. Do vậy, những năm còn ban sơ tuổi nhỏ, La Hầu La cũng như bao đứa trẻ con khác, cũng đều ưa trêu chọc người.

Khi ấy, La Hầu La đang ở rừng Ôn Tuyền ngoài thành Vương Xá, có rất nhiều quan đại thần, trưởng giả và cư sĩ đến hỏi thăm Đức Thế Tôn hiện ở đâu. Lúc này, cậu thường sẽ tìm cách nói gạt để trêu ghẹo mọi người. Nếu Đức Phật đang ở tịnh xá Trúc Lâm, La Hầu La sẽ nói Ngài ở núi Kỳ-xà-quật, Đức Phật ở tại Kỳ-xà-quật thì cậu lại nói gạt rằng Phật ở tịnh xá Trúc Lâm. Hai nơi ấy cách xa nhau đến hai dặm, khiến mọi người cứ đi tới đi lui, mà rốt cuộc lại không gặp được Phật. Khi họ thất vọng quay đi về, La Hầu La còn cười nhạo:

“- Các ông không gặp được Phật hay sao?”

“- Đại đức! Ngài còn cười nhạo chúng tôi nữa ư?”

“- Ai trêu chọc các ông? Tôi lo cho các ông thôi chứ.”

Cậu bé La Hầu La nghịch ngợm, không bao giờ nhận lỗi lầm của mình. Bởi cậu vốn là cháu vua Tịnh Phạn, con Phật, tuy xuất gia trong Tăng đoàn bình đẳng nhưng vẫn là con nít, nên có thể được nhiều người sủng ái. Do đó, theo tâm lý chung, cậu bé sẽ có những tập khí kiêu mạn.

la-hau-la-66

Khi mới xuất gia, La Hầu La khá nghịch ngợm và hay nói dối, trêu chọc mọi người 

La Hầu La gạt mọi người một, hai lần thì thiên hạ còn bị lầm, tuy nhiên, sau vài lần thì mọi người đều biết. Vì thế, tiếng đồn La Hầu La nói dối, chọc ghẹo mọi người đã đến tai Phật. Nghe được tin ấy, Đức Thế Tôn không vui chút nào. Một hôm, Ngài đã đích thân đến rừng Ôn Tuyền và răn dạy La Hầu La một phen.

V. Lời răn dạy của Phật về bài học rửa chân

Hôm ấy, Đức Thế Tôn đến chỗ ở của La Hầu La với dáng vẻ hết sức oai nghiêm. La Hầu La không ngờ liền vội chỉnh y ra nghênh đón Đức Phật. Đợi cho Thế Tôn an tọa, cậu đem nước đến cho Ngài rửa chân. Đức Phật không nói một lời nào, rửa chân xong, Ngài bèn chỉ vào nước dơ trong chậu và bảo với La Hầu La:

“- Này La Hầu La! Thứ nước dơ bẩn này có đem đi uống được nữa không?”

“- Bạch Thế Tôn! Nước rửa chân rất dơ, không thể nào uống được.”

“- Ông cũng giống thứ nước đó!” – Đức Thế Tôn quở

Tiếp đó, Đức Phật liền dạy La Hầu La:

“- Nước vốn trong sạch, rửa chân xong liền trở nên cáu bẩn, giống như ông vốn là vương tôn, lìa bỏ mọi thứ vinh hoa phú quý của thế gian, xuất gia thành Sa-môn, tuy chưa thọ giới Tỳ-kheo, nhưng ông đã thọ mười giới Sa-di. Ông không tinh tấn tu tập, không để thân tâm thanh tịnh, không cẩn thận giữ miệng, lời nói, dối gạt chọc ghẹo mọi người, cấu uế của tam độc đầy rẫy trong tâm ông, giống như nước trong sạch bị dơ bẩn một thứ.”

Chưa bao giờ, Đức Thế Tôn nghiêm nghị đến như vậy. La Hầu La cúi đầu chẳng dám ngó lên Phật. Sau đó, Đức Phật bảo đem nước đổ đi, cậu bé mới nhúc nhích. Đợi cậu đã đổ hết nước xong, Phật lại hỏi:

“- La Hầu La! Ông lấy cái chậu này đựng cơm có được không?”

“- Bạch Thế Tôn! Chậu đã đựng nước rửa chân không thể đem đựng cơm, vì chậu đã dơ, đầy cáu ghét không thể đựng thức ăn được nữa!”

“- Ông cũng giống cái chậu đó. Tuy đã làm Sa-môn thanh tịnh mà không tu giới định huệ, thân khẩu ý không thanh tịnh, chứa đầy cấu uế không chân thật thì thức ăn đạo lý làm sao nhét vào tâm ông ?”

Đức Phật nói xong liền lấy chân đá nhẹ cái chậu lăn mấy vòng, La Hầu La thấy thế rất hoảng sợ. Phật lại hỏi:

“- La Hầu La! Ông sợ cái chậu này bị đá bể đi không?”

“- Bạch Thế Tôn! Không ạ. Chậu rửa chân là đồ vật xấu, có bể đi cũng chẳng sao.”

“- La Hầu La! Ông không tiếc cái chậu này, cũng giống như mọi người không thương mến ông. Ông xuất gia làm Sa-môn, không giữ được oai nghi, nói dối đùa ghẹo, ai mà thương ông cho được. Không ai quý tiếc gì ông, cho đến lúc chết mà ông không hối cải, lại càng chìm trong mê mờ.”

La Hầu La sợ toát mồ hôi, vô cùng xấu hổ, liền phát nguyện từ nay về sau cố gắng sửa đổi tâm tánh. 

La Hầu La được Đức Phật răn dạy bằng bài học rửa chân

Đức Phật răn dạy xong, lại nói thêm cho La Hầu La nghe:

“- Quá khứ, có một quốc gia nọ nuôi hai con voi lớn rất dũng mãnh thiện chiến. Mỗi khi nhà vua cử binh ra trận thì lại trang bị áo giáp cho chúng. Ngà voi được đeo giáo nhọn, bên tai giắt kiếm bén, bốn chân đều mang sao sáng ngời, sau đuôi lại cột thêm gậy sắt. Tuy mang nhiều vũ khí như vậy, nhưng mỗi khi giao chiến chúng đều phải cuốn vòi giấu kín, vì đó là chỗ nhược, nếu để trúng tên thì sẽ chết ngay, vì muốn giữ gìn mạng sống thì phải giữ kỹ chiếc vòi.

La Hầu La! Ông cũng phải như chú voi kia phải giữ kỹ lấy cái vòi, cẩn thận giữ gìn lời nói, mỗi khi mở miệng đùa cợt thì như voi bị thương, huệ mạng của ông sẽ mất, không được mọi người thương mến, không được người trí yêu thích, đến khi lâm chung sẽ bị rơi vào ba đường khổ.”

Đức Thế Tôn dùng hết tình hết lý, khẩn thiết và nghiêm trang răn dạy cho cậu, mỗi lời, mỗi câu đều in sâu vào tâm La Hầu La, vì thế, chú bé phát nguyện từ nay sẽ sửa đổi. La Hầu La tuy có bản tính ngoan ngoãn, tốt bụng nhưng phải có pháp thủy của Đức Thế Tôn tẩy rửa mới trở nên thanh tịnh vô nhiễm được. Từ đó trở đi, La Hầu La trở thành một người khác.

la-hau-la-888

La Hầu La đã thay đổi, tự tu tập và trở thành Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật

Trên đây là các câu chuyện về sự ra đời cũng như cuộc sống của La Hầu La – người con duy nhất của Đức Phật khi chưa xuất gia. Hy vọng rằng bài viết này của Vật phẩm Phật giáo sẽ giúp các Phật tử hiểu rõ hơn về ông để con đường tu hành trở nên suôn sẻ, thành công hơn.

Nam Mô A Di Đà Phật!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

slot gacor https://dpmptsp.pasamanbaratkab.go.id/ https://smriolog.com.br/ https://pafipclahat.org/
.
.
.