Theo truyền thống Phật giáo Việt Nam, mỗi khi quy y Tam Bảo để trở thành một đệ tử chính thức thì sẽ có một tên mới gọi là pháp danh Phật giáo. Nó được dùng như thế nào khi tại thế và qua đời hoặc khi chưa quy y. Khi tìm hiểu về điều này bạn sẽ biết rõ được nguồn gốc cái tên mà bạn có thể sẽ được đặt khi quy y Tam Bảo. Vật phẩm Phật giáo sẽ giải đáp thắc mắc này cũng như cung cấp đến bạn một số thông tin liên quan đến pháp danh.
Mỗi phật tử trước khi quy y Tam bảo sẽ có một tên pháp danh riêng
1. Lịch sử hình thành pháp danh, pháp tự, pháp hiệu
Khi Phật giáo truyền bá sang Trung Quốc, ngài Đạo An (312-385) đề xuất lấy họ của Đức Phật (Thích-Sakya) làm họ cho người xuất gia và ngài cũng đổi tên mình là Thích Đạo An. Từ đó, người xuất gia đã bắt đầu mang dòng họ Thích.
Tại Việt Nam, các vị thiền sư thời Lý-Trần thường dùng pháp hiệu, tuy nhiên không mang họ Thích. Các Thiền sư như Viên Chiếu (thế danh Mai Trực), Ni sư Diệu Nhân (thế danh Lý Ngọc Kiều),… cũng đều dùng đạo hiệu – pháp hiệu.
Sau khi thọ Cụ túc giới, chính thức là Tỳ-kheo thì bổn sư sẽ ban cho pháp hiệu. Với một vài trường hợp, pháp hiệu có thể do các vị y chỉ sư, giáo thọ sư hoặc chư Tăng ban tặng, hoặc có thể tự xưng sau đó sẽ trình lên các bậc thầy và được xác chứng.
Pháp hiệu được các chư Tăng Ni sử dụng trong đời sống thường nhật
Sau này, pháp hiệu đã được chư Tăng Ni dùng trong đời sống thường nhật. Dù vậy, vẫn có các trường hợp vị Tăng Ni không có pháp hiệu. Việc dùng pháp danh, pháp hiệu, pháp tự là do quan điểm cá nhân của mỗi vị Tăng Ni hoặc do tập quán Tăng Ni ở từng khu vực, vùng miền khác nhau. Nhưng đa phần thì chư tôn đức Tăng Ni sẽ dùng pháp hiệu.
2. Đánh giá về tên pháp danh diệu hạnh mà bạn chưa biết
Với các phật tử tại gia, pháp danh không có chữ Thích đi trước, mà chỉ có các chữ như Cư sĩ, Tín nữ, Đạo hữu, Phật tử…ở phía trước. Ngoài ra tín đồ Phật giáo sẽ được đặt pháp danh sau khi đã qua đời để sử dụng trong lúc cúng thành tang lễ nếu khi còn tại thế chưa quy y.
Một người sẽ chính thức trở thành người phật tử sau khi quy y Tam bảo, theo đó họ sẽ có một pháp danh cho riêng mình do thầy bổn sư 5 giới trao truyền.
3. Cấu trúc tên pháp danh của bạn có ý nghĩa gì?
Pháp danh gồm có hai 2 chữ: Chữ đầu là sự liên hệ đến thế hệ của môn phái theo bài kệ của Ngài Tổ môn phái đó. Chữ sau do vị Bổn Sư lựa chọn dựa trên ý nghĩa tên người đệ tử (thế danh) tạo nên một chữ kép mang ý nghĩa hay, và có tính khuyến tu.
Ví dụ: Người có tên Mỹ, quy y với vị Bổn Sư có Pháp danh chữ trước là TÂM thường có Pháp danh chữ trước là Nguyên; chữ sau là Mãn. Tức là Nguyên Mãn.
Đôi lúc tên của người đệ tử đã mang sẵn chữ có nghĩa đạo và nó thích hợp với chữ trong bài kệ, nếu các tên không thể tìm được chữ ghép có thể lấy chữ trong tên các vị La Hán, Bồ Tát v.v… để tạo nên Pháp danh. Trước đây, các Ngài bổn Sư thường lấy chữ trong cuốn Kim Quang Minh Tam Tự để đặt pháp danh cho các đệ tử.
Tên pháp danh thường là những chữ phù hợp với chữ trong bài kệ
Hiện nay, Phật giáo Việt Nam đều xuất từ Thiền Tông, đa số là dòng Tào Động , Lâm Tế. Long vị của các Ngài Tổ đều ghi Lâm Tế, song pháp tu lại kiêm cả Tịnh và Mật Tông. Chẳng hạn như ở Huế hiện ít nhất cũng truyền thừa theo ba bài kệ của mỗi vị Tổ môn phái xuất kệ nhưng đều thuộc dòng Lâm Tế.
4. Tổng hợp một vài tên pháp danh phổ biến
Theo như Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn: cho rằng Pháp danh là tên đạo lý, phàm người được thế độ làm tăng không còn dùng tên họ theo đời mà cần lấy tên theo đạo do vị tôn sư đặt cho. Người thọ tam quy, ngũ giới hay tu tại gia cũng đều được mang pháp danh, cũng gọi là pháp hiệu.
Có một vị cao tăng tại chùa Long Thiên Tự đã giải thích pháp danh như sau: Khi muốn thành Phật tử, phải quy y tam bảo, sau đó vị bổn sư truyền giới sẽ đặt cho họ một pháp danh, dựa vào bài kệ được truyền trong môn phái của vị bổn sư ấy. Vị cao tăng đã đọc bài kệ để dùng trong việc đặt pháp danh cho các đệ tử:
“Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên
Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Nguyên
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Thổ
Chiếu Thế Sơn Đăng Vạn Cổ Truyền”
Mỗi vị tổ sẽ lấy lần lượt một chữ ở bài kệ làm chữ đứng đầu của pháp danh. Chữ đứng sau, sẽ do vị bổn sư truyền giới tự chọn, song cần lấy chữ có nghĩa tương tự với tên riêng.
5. Ý nghĩa của một số tên pháp danh đẹp
Tổng hợp một vài tên pháp danh đẹp mang ý nghĩa
5.1. Ngài Thiền Sư Vạn Phong Thời Uỷ (Môn phái Hải Đức, ở Huế. Môn phái Thập Tháp Di Đà, Bình Định), cũng đều dùng bài kệ này:
“Tổ Đạo Giới Định Tông
Phương Quảng Chứng Viên Thông
Hạnh Siêu Minh Thật Tế
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không
Như Nhật Quang Thường Chiếu
Phổ Châu Lợi Ích Đồng
Tín Hương Sanh Phước Huệ
Tương Kế Chấn Từ Phong”
Quý Thầy thế hệ cao nhất ở môn phái này đang tầm trong khoảng chữ CHƠN.
5.2. Phần lớn các chùa khác thuộc môn phái Ngài Liễu Quán dùng bài kệ sau:
“Thật Tế Đại Đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận
Đức Bổn Từ Phong
Giới Định Phước Huệ
Thể Dụng Viên Thông
Vĩnh Siêu Trí Quả
Mật Khế Thành Công
Truyền Trì Diệu Lý
Diễn Xướng Chánh Tông
Hạnh Giải Tương Ưng
Đạt Ngộ Chơn Không”
Quý Thầy thế hệ cao nhất ở môn phái này đang ở chữ TRỪNG.
Miền Trung và miền Nam là nơi phát triển mạnh hai dòng này
5.3. Bên cạnh đó, tại Huế môn phái chùa Quốc Ân do Tổ Nguyên Thiều lập lại đã dùng bài kệ của Ngài Đạo Mân đời thứ 31 như sau:
“Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên
Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thiên
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ
Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Huyền”
Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái này đang ở chữ LỆ.
5.4. Tại Quảng Nam Đà Nẵng có môn phái là chùa Chúc Thánh thuộc Ngài Minh Hải Pháp Bảo đã biệt xuất bài kệ khác là:
“Minh Thật Pháp Toàn Chương
Ấn Chơn Như Thị Đồng
Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu
Kỳ Quốc Tộ Địa Trường
Đắc Chánh Luật Vi Tuyên
Tổ Đạo Hạnh Giải Thông
Giác Hoa Bồ Đề Thọ
Sung Mãn Nhơn Thiên Trung”
5.5. Thêm vào đó còn những bài kệ khác như của Ngài Trí Thắng Bích Dung ở đời thứ 41 biệt xuất như sau:
“Trí Huệ Thanh Tịnh
Đạo Đức Viên Minh
Chơn Như Tánh Hải
Tịch Chiếu Phổ Thông
Tâm Nguyên Quảng Tục
Bổn Giác Xương Long
Năng Nhơn Thánh Quả
Thường Diễn Khoan Hoằng
Duy Truyền Pháp ấn
Chánh Ngộ Hội Dung
Không Trì Giới Hạnh
Vĩnh Kế Tổ Tông”
5.6. Ở miền Bắc, ngài Minh Hành Tại Toại cũng biệt xuất bài kệ:
“Minh Chơn Như bảo Hải
Kim Tường Phổ Chiếu Thông
Chí Đạo Thành Chánh Quả
Giác Ngộ Chứng Chơn Thường”
5.7. Ngài Tri Giáo Nhất Cú tông Tào Động cũng xuất bài kệ:
“Tịnh Trí Viên Thông Tông Từ Tánh
Khoan Giác Đạo Sanh Thị Chánh Tâm
Mật Hạnh Nhân Đức Xưng Lương Huệ
Đăng Phổ Chiếu Hoằng Pháp Vĩnh Trường”
Thông qua những chia sẻ ở bài viết trên của Vật phẩm Phật giáo, hy vọng quý bạn đọc đã có nhiều thông tin bổ ích, hiểu rõ pháp danh là gì và những cách đặt tên pháp danh đẹp có ý nghĩa. Nếu bạn đang quan tâm hay có nhu cầu tham khảo thì vui lòng liên hệ qua hotline 08.6767.1366 hoặc truy cập website vatphamphatgiao.com để được chúng tôi hỗ trợ và tư vấn nhanh nhất.
Nam Mô A Di Đà Phật.